SGTT.VN - Trong các vườn gia đình của nước ta, đu đủ là một
trong những cây ăn trái được trồng phổ biến. Không chỉ cung cấp nguồn
thực phẩm bổ dưỡng, đu đủ từ lâu còn được xem là dược liệu có nhiều công
hiệu đáng quý.
Đu
đủ có tên khoa học Carica papaya L., thuộc họ đu đủ (Caricaceae). Chúng
là cây đa tính: các cây đực có hoa đực và hoa lưỡng tính, cây cái có
hoa cái và hoa lưỡng tính. Trái kết từ hoa cái thường tròn, khoảng rỗng
trong trái to, thịt mỏng, nhiều hạt. Còn các trái kết từ hoa lưỡng tính
thì dài hình quả lê, có khi có những trái dị dạng do số lá noãn không
phải là năm như bình thường mà chỉ có 2 hoặc 3, có khi đến 9 – 10 lá
noãn hợp lại thành bầu một ô; thịt dày và chứa ít hạt.
Thức ăn bổ dưỡng
Người
ta trồng lấy đu đủ chín làm thức ăn bổ dưỡng. Trong 100g ăn được của đu
đủ chín có: nước 87,1%; protein 0,5%; lipid 0,1%; đường tổng số 11,8%,
các vitamin B1 0,03mg; tương đương vitamin A 710microgram, vitamin C
73mg; vitamin B2 0,05mg, vitamin P 0,4mg; các chất khoáng: calcium 24mg,
phosphor 22mg, sắt 0,7mg, natrium 4mg, kalium 221mg. 100g đu đủ cung
cấp cho cơ thể 45 calo.
Trái đu đủ khi còn xanh cũng có nhiều
công dụng: dùng nấu thịt (nhất là thịt ba rọi) cho chóng nhừ, luộc ăn,
dùng muối dưa, làm mứt... Đu đủ xanh sống có tác dụng tiêu mạnh nhưng ăn
nhiều thì xót ruột (do đó người đau dạ dày nên kiêng ăn). Lá đu đủ gói
thịt trong vài giờ sẽ làm cho thịt mềm nhanh.
Thuốc hay đa dụng
Trái
đu đủ chín có vị ngọt, rất bổ, ăn nhiều thì nhuận tràng, giúp tiêu hoá
các chất thịt, các chất albumin. Những người táo bón nên ăn nhiều để
thông đại tiện; nếu ăn nhiều thịt, trứng và thức ăn nhiều đạm, thì nên
ăn đu đủ tráng miệng vừa làm thuốc tiêu thực tốt.
Người bệnh loét
dạ dày, kém ăn, dùng đu đủ xanh nấu chín với thịt gà, ăn cách ngày
trong vài tuần. Bị chấn thương bầm giập, dùng ngay trái đu đủ xanh xẻ
đôi, đổ vào ly rượu trắng và đặt lên bếp nấu cho chín, đem ra áp lên vết
thương, có thể bóp nát rồi băng lên. Để trị giun kim, dùng vài miếng đu
đủ buổi sáng sớm, ăn lúc đói, liên tục 3 – 4 ngày. Lá đu đủ nấu nước
dùng tẩy sạch vết máu ở vải và các vết loét, vết thương, sát trùng. Rễ
đu đủ dùng chữa rắn cắn (rửa sạch nhai nuốt nước, lấy bã đắp). Hoa đu đủ
được nấu lên dùng làm thuốc hạ sốt, chữa ho (phối hợp với các vị thuốc
khác, hấp đường) và cũng dùng trị giun. Hạt đu đủ ép có thể chiết xuất
25% một loại dầu thực phẩm. Trong y học hiện nay, người ta dùng nhiều
nhất là nhựa đu đủ làm khô mà thành phần chính là papain, một hoạt chất
có rất nhiều tác dụng (tiêu hoá protid, biến đổi các chất có albumin
thành pepton; còn làm dễ tiêu hoá và giải độc...).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét