Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện
thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là
ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.
-
Chiếu sáng:
Mật độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng, phát
triển và ra hoa của lan. Thiếu nắng cây lan vươn cao nhưng nhỏ và ốm
yếu, lá màu xanh tối, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây ít nảy chồi, khó ra
hoa, hoa nhỏ và ngắn màu sắc không tươi, hoa nhanh tàn. Thừa nắng lan
thấp cây, lá vàng có vết nhăn và khô, mép lá có xu hướng cụp vào, dễ ra
hoa sớm khi cây còn nhỏ nên hoa ngắn, nhỏ, cây kém phát triển. Nếu nắng
gắt quá lá sẽ bị cháy, khô dần rồi chết.
Lan có yêu cầu khác nhau về mức độ chiếu sáng tùy theo loài lan và tuổi
cây. Lan Hồ điệp (Phalaenopsis) ít chịu nắng nhất, có thể chịu được 30%
nắng, lan Cattleya chịu được 50% nắng, lan Dendrobium hay Vanda lá hẹp
chịu được 70% nắng, trong khi lan Vanda lá dài và Bò cạp chịu được tới
100% nắng. Lan con từ 0-12 tháng đang trong giai đoạn tăng trưởng thân
lá chỉ cần chiếu sáng 50%, lan nhỡ từ 12-18 tháng cần chiếu sáng tới 70%
và thời điểm kích thích ra hoa có thể cho chiếu sáng nhiều hơn, thậm
chí bỏ dàn che để chiếu sáng tự nhiên. Hướng chiếu sáng cũng rất quan
trọng đối với lan. Lan đặt ở hướng Đông nhận ánh nắng buổi sáng sẽ tốt
hơn nhiều so với lan đặt ở hướng Tây nhận ánh nắng buổi chiều. Chính vì
vậy nếu trồng lan trên sân thượng hay ban công ở phía Tây lan kém phát
triển và ít hoa. Khi trồng lan cần bố trí hàng theo hướng Bắc – Nam để
cây nhận được ánh sáng phân bố đầy đủ nhất.
-
Phân bón:
Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với lan. Khi lan đầy đủ dinh
dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa, hoa to đẹp, bền trong khi thiếu dinh
dưỡng lan còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Lan cần 13 chất
dinh dưỡng khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng: Dinh dưỡng đa
lượng gồm Đạm (N), Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu
huỳnh (S), Magiê (Mg) và Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe),
Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).
Thiếu đạm, cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển vàng theo
qui luật lá già trước, lá non sau, rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cỗi, cây
khó ra hoa.
Thừa đạm, thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh, đầu rễ chuyển xám đen, cây khó ra hoa.
Thiếu lân, cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển xanh đậm, rễ không trắng sáng mà chuyển màu xám đen, không ra hoa.
Thừa lân cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây
mất sức rất nhanh sau ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến
thiếu Kẽm, Sắt và Mangan.
Thiếu kali, cây kém phát triển, lá già vàng dần từ hai mép lá và chóp lá
sau lan dần vào trong, lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu
bệnh tấn công, cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu không sắc tươi và dễ bị dập
nát.
Thừa kali, thân lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa kali dễ dẫn đến thiếu magiê và can xi.
Thiếu lưu huỳnh, lá non chuyển vàng nhạt, cây còi cọc, kém phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm.
Thiếu magiê, thân lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các
lá già trong khi hai bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố hình
thành không đầy đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.
Thiếu canxi, cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây yếu dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công.
Thiếu kẽm, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt
chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc
sít nhau, các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.
Thiếu đồng, xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu lá chuyển
trắng, số hoa hình thành ít bị hạn chế, cây yếu dễ bị nấm tấn công.
Thiếu sắt, các lá non chuyển úa vàng sau trở nên trắng nhợt, cây còi cọc, ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.
Thiếu mangan, úa vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng bởi sự xuất
hiện các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau
lan ra cả lá, cây còi cọc, chậm phát triển.
Thiếu bo, lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết
khô đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc số nụ ít, hoa dễ bị bị rụng, không thơm
và nhanh tàn.
Thiếu molypden, xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới, nếu
thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém
phát triển.
Thiếu clo, xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành sau chuyển màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.
Lan rất cần phân bón nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao, vì
vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng
cách phun qua lá. Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng
đa, trung và vi lượng với thành phần và tỷ lệ phù hợp với từng thời kỳ
sinh trưởng và phát triển của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ
sinh trưởng thân lá mạnh cần đạm cao, lân và kali thấp, trước khi ra
hoa cần lân và kali cao, đạm thấp trong khi lan nở hoa cần kali cao, lân
và đạm thấp hơn.
Phân bón thích hợp cho các thời kỳ này là Đầu Trâu 501, 701 và 901, đây
là loại phân có đầy đủ và cân đối đa, trung, vi lượng và các chất điều
hòa sinh trưởng. Nồng độ và liều lượng phun tùy thuộc tuổi và thời kỳ
phát triển như sau:
- Lan mới trồng 0-6 tháng hoặc lan mới ra chồi non sau cắt hoa: Phun
phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 500 ppm (0,5 g/lít). Giai
đoạn trước 3 tháng phun định kỳ 3 ngày/lần, từ 3-6 tháng định kỳ 7
ngày/lần.
- Lan mới trồng 6-12 tháng hay lan cũ có chồi mới đang phát triển mạnh:
Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít),
định kỳ 7 ngày/lần.
- Lan mới trồng 12-18 tháng hay lan cũ có chồi đã thành thục chuẩn bị ra
hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 701 (10-30-20) nồng độ 3.000 ppm
(3g/lít), định kỳ 7 ngày/lần. Giai đoạn này cần giảm nước tưới và bỏ bớt
mật độ giàn che để năng mức độ chiếu sáng nhằm kích thích ra hoa.
- Khi vòi hoa xuất hiện: Phun phân bón lá Đầu Trâu 901 (15-20-25) nồng
độ 2.000 ppm (2g/lít) nhằm thúc hoa nở to, đẹp, giữ hoa lâu tàn.
TƯỚI NƯỚC:
Lan rất cần nước cho quá trình sinh trưởng phát triển. Nếu thiếu nước
cây sẽ khô héo, giả hành teo lại, lá rụng nhưng không chết, nụ có thể
trước khi nở hoa. Thừa nước, cây dễ bị thối đọt nhất là với các giống
lan có lá đứng mọc sít nhau. Quá nhiều nước rễ có rong rêu và nấm bệnh
phát triển mạnh.
Nước tưới Phong lan không cầu kỳ lắm như mọi người tưởng trước đây, miễn
sao nước thật sạch, không mặn, không lợ là được. Tuy nhiên, tốt nhất
nên dùng nước mưa vì độ ph - 6 - 7, rất phù hợp với rễ Phong lan còn
non. Sau đó có thể dùng đến nước giếng (cần tránh nước cứng), nước ao
hồ, sông, rạch (chú ý độ ph và độ sạch của nước). Cuối cùng phổ thông và
tiện lợi nhất vẫn là dùng nước máy, chỉ cần chú ý đến độ clor trong
nước (để nước trong chum vại ít ngày cho bay hết clor).
Cách tưới nước cũng cần chú ý. Tốt nhất dùng vòi với các lỗ nhỏ và tưới
vọt lên cao, hạt nước nhỏ li ti theo gió rơi nhẹ xuống cả cây Phong lan.
Một số người có thói quen nhúng ngập đến miệng chậu Phong lan vào chậu
nước lớn. Làm như vậy nước thấm đều vào trong từng kẽ than, kẽ gạch và
ướt hết cả sơ dừa. Tuy nhiên vì nhúng nhiều chậu Phong lan rồi mới thay
nước, bệnh cây dễ lây lan từ cây này sang cây nọ Nguyên tắc tưới nước
phải nhiều, đậm nhưng phải dần dần cho thấm đều, tránh dội nước ào vào
cây Phong lan lượng nước nhiều nhưng ngấm ít và có khi làm thương tổn
cây. Tưới nước cũng nên làm vào buổi sáng và sao cho cây được ẩm ướt
suốt cho đến chiều mới phải tưới bổ sung. Vào mùa khô, nếu trồng Phong
lan nơi có độ nóng cao, chỉ nên làm ẩm ướt toàn bộ môi trường xung
quanh, đừng tưới riêng cho cây Phong lan vì xưng quanh nóng sẽ phả hơi
khô làm cây bị ngập. Lượng nước tưới tùy thuộc theo mùa. Đặc biệt trong
mùa mưa phải đón giờ mưa để tránh khỏi mắc công vừa tưới nước, vừa làm
cây bị ngập úng. Riêng đối với các loài trồng thành luống, phải tùy theo
loại đất cô giữ nước hay không mà tưới sao cho vừa đủ. Cộng vào đó cần ủ
gốc bằng rơm để giữ độ ẩm được lâu.
-
Phòng trừ sâu bệnh:
Lan là cây cũng dễ bị sâu bệnh, nhất là trong điều kiện chăm sóc kém,
điều kiện môi trường không thuận lợi. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà
dùng các loại thuốc thích hợp. Liều lượng và nồng độ phun cần theo đúng
hướng dẫn trên bao bì sản phẩm. Nếu lan bị các loại sâu hại thân lá có
thể dùng các thuốc chứa hoạt chất Fenitrothion, Trichlorfon như Ofatox
400EC, hoạt chất Cartap như Patox 95SP hay Captafon, Captan hoặc Actara
25WG. Lan bị rệp sáp, rệp trắng, rầy mềm dùng Supracid 40ED/ND,
Suprathion 40EC, Bitox 40EC hay Ofatox 400EC. Lan bị nấm, vi khuẩn hay
virus gây nên tình trạng cháy lá từng đám, vết cháy lan tròn dần, bệnh
thối rễ dùng Zinep, Starner 20 WP hay Benomyl.